
ĐỨC HIỂN TÔNG HIẾU MINH HOÀNG ĐẾ 顯宗孝明皇帝

Là vị Chúa Nguyễn thứ sáu ở Đàng Trong và là con trai trưởng của Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái 阮 福 溙 (1650 – 1691) cùng Hoàng Hậu Tống Thị Lĩnh 宋 氏 領 (1653 – 1696).

Ngày 10 tháng Giêng năm Tân Mùi (7.2.1691) đức Anh Tông băng, quần thần tôn Ngài lên kế vị, bấy giờ Ngài chưa tròn 17 tuổi. Ngay từ khi vừa mới nối ngôi, Chúa đã quan tâm chiêu hiền, đãi sĩ, cầu lời nói thẳng, nạp lời can gián, bỏ xa hoa, ít chi phí, nhẹ thuế má, giao dịch, bớt việc hình ngục, tiến hành cải cách cơ chế tổ chức trung ương, định lại quan tước, phẩm hàm, tu sửa chùa miếu, quan tâm đến tính nghiêm minh trong đào tạo nhân tài và tổ chức thi cử… nên trăm họ đều mừng vui.

Năm Quý Dậu – 1693, sau khi mãn tang, quần thần tấn tôn ngài làm Thái Phó Quốc Công và dâng tôn hiệu là Quốc Chúa 國 主. Từ đó trong các dụ về nội trị, ngoại giao đều xưng là Quốc Chúa (còn gọi là Minh Vương 明 王, hay chúa Minh 主 明).
Tháng 8 năm 1692, vua Chiêm Thành làm phản, hợp quân, đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ Diên Ninh, Ngài sai Cai Cơ Nguyễn Hữu Cảnh đi đánh, bắt được vua Chiêm, bầy tôi cùng thân thuộc đem về và đổi nước ấy thành trấn Thuận Thành. Đến tháng 11 năm 1694, sau khi vua Chiêm là Bà Tranh mất, Chúa phong cho con trai vua Chiêm là Kế Bà Tử làm phiên vương trấn Thuận Thành. Đây là điểm nổi trội về tính khoan dung, độ lượng thông qua xử thế và nhân tình thế thái, không chỉ là bậc quân vương mà mang tình người ấm áp, biết nhìn và sử dụng người vào công việc chung của đất nước.
Quốc Chúa là người xem trọng việc học và sùng đạo Phật, nên vừa lo kiện toàn việc học hành và thi cử vừa không quên việc hoằng pháp. Năm Giáp Tuất 1694 Ngài sai người sang Quảng Đông mời Hòa thượng Thích Đại Sán (Thạch Liêm Hòa Thượng) sang thuyết pháp về đạo Phật cho quan lại và dân chúng nghe. Hòa thượng đã tổ chức giới đàn để truyền giới bồ tát cho Ngài và quyến thuộc, quan lại và 1400 tăng ni ở Phú Xuân. Ngài có Đạo hiệu là Thiên Túng Đạo Nhân 天 縱 道 人 (*), Pháp danh là Hưng Long.
Dưới thời Quốc Chúa, Phật giáo rất phát triển, nhưng trước đó, vì không có cương lĩnh và không có nhiều vị sư uyên bác xứng đáng để lãnh đạo. Chính vì vậy mà Chúa đã cho người dâng thư mời Hòa Thượng Thạch Liêm đến hai lần. Trong thời gian lưu tại xứ Đàng Trong, ngoài việc cố vấn cho Chúa về lĩnh vực trị nước, Hòa Thượng đã giúp đỡ nội phủ rất nhiều trong việc trùng hưng đạo Phật. Trong cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự, Hòa Thượng đã viết:
“Lão tăng đức bạc tài sơ, mong nhà vua đặc cách trị ngộ, xa xuôi vài nghìn dặm, khiến sứ thỉnh cầu. Lão tăng cảm thành tâm của nhà vua, vượt biển đến đây, xông pha ba đào, chẳng phải ưa mệt, chỉ vì lòng yêu nhà vua rất sâu vậy. Từ ngày đến quý quốc đến nay, gần hai mươi ngày, ba phen triều kiến; nhà vua trọng lễ đãi đằng, chơn thành hỏi đạo; cho đến hậu cung thích thuộc bá quan văn vũ, cũng thảy đều nhất thể quy y; chẳng phải một nước lâu đời vui làm lành, há dễ được như thế” (Hải Ngoại Kỷ Sự, trang 51- Viện Đại Học Huế 1963).
Năm 1695, Ngài đặt ra khoa thi Văn Chức (ngang với Hàn Lâm Viện thời đức Vũ Vương) và Tam Ty (Chánh quyền Trung ương) ở phủ Chúa để chọn người tài giúp nước.
Nối tiếp những chính sách trị nước của các vị Chúa tiền nhiệm, Quốc Chúa khẳng định nhất quán tư tưởng mở rộng lãnh thổ về phương Nam, đó là vùng đất Gia Định. Tháng Giêng năm Mậu Dần 1698, theo lệnh Quốc Chúa, Nguyễn Hữu Cảnh đã tiến hành kinh lược đất Đồng Nai – Gia Định, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, mỗi dinh đều đặt các chức Lưu thủ, Cai bạ, Ký lục và các cơ đội thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất đai được nghìn dặm, dân số được hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ những người dân phiêu dạt từ Bố Chính trở về Nam cho đến ở. Thiết lập xã thôn, phong ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệ thuế tô, làm sở đinh điền. Lấy người Thanh đến buôn bán ở Trấn Biên lập xã Thanh Hà, ở Phiên Trấn lập xã Minh Hương. Từ đó người Thanh ở buôn bán đều thành dân của nước ta.
Năm 1708, một người Minh hương khác là Mạc Cửu người Lôi Châu tỉnh Quảng Đông đem vùng đất Hà Tiên đã khai khẩn được dâng làm thuộc quốc, Chúa tiếp nhận vùng đất Hà Tiên và phong cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn giữ. Sự kiện này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công cuộc khai phá và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên vùng cực nam Nam Bộ. Từ đây, Hà Tiên trở thành một lá chắn an toàn cho việc khai phá vùng đất ở khu vực phía tây sông Hậu và vùng ven biển giáp vịnh Xiêm La của nước ta.
Sự kiện Quốc Chúa lập các dinh trấn này với những chính sách mềm dẻo, linh hoạt, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất Nam Bộ, biến nơi đây trở thành địa điểm giao thương tấp nập bậc nhất ở Đàng Trong là dấu mốc quan trọng trong lịch sử mở rộng lãnh thổ.
Để khẳng định vị thế vững mạnh và danh tiếng ngày càng cao trong khu vực, tháng Chạp năm Kỷ Sửu 1709, Ngài cho đúc ấn vàng Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bửu 大 越 國 阮 主 永 鎮 之 寶 . Đây được coi là vật quốc bảo truyền ngôi từ đây về sau cho đến hết đời vua Thiệu Trị. (Chiếc Ấn này qua ít nhất 5 lần tưởng như đã mất, nhưng tìm lại được, nên vua Thế Tổ tin ở thiên mệnh và xem nó là ấn báu truyền quốc của các chúa Nguyễn và vua Nguyễn).

Nhận thức được vị thế và vai trò ngày càng hùng mạnh của đất miền Nam trong mối quan hệ với khu vực và Trung Hoa, lại thấy đất đai Đàng Trong ngày càng mở rộng, phía Bắc thì không lo ngại thanh thế của họ Trịnh, năm 1701, Chúa sai các tướng sửa sang luỹ Trường Dục, khẳng định thế cân bằng đối trọng với họ Trịnh ở Đàng Ngoài.
Chúa sai sứ sang nhà Thanh vào năm 1702 xin thụ phong. Tuy việc này không thành, song qua đó cũng đã thấy nội lực kinh tế và sự vững mạnh về chính trị, nhằm khẳng định vị thế của Đàng Trong với Đàng Ngoài cùng các phiên bang, cho biết tầm nhìn và quan điểm mong muốn xây dựng một quốc gia hoàn toàn độc lập ở phương Nam của Quốc Chúa.
Tháng 8 năm Nhâm ngọ 1702, ở biển phía Nam có giặc biển người Anh đến cướp phá, chiếm cứ đảo Côn Lôn. Đồ đảng hơn 200 người và 8 chiến thuyền, xây dựng sào huyệt kiên cố. Ngài sai Chưởng dinh Trương Phước Phan tìm cách trừ bọn cướp. Sau chiêu mộ được 15 người Chà Và làm kế nội ứng, đốt tan được sào huyệt của giặc, tịch thu của cải đem về.
Năm Canh Dần 1710, nhân ngày Phật đản, Ngài cho đúc chuông chùa Thiên Mụ nặng 3.285 cân ta, Ngài thân làm bài minh khắc vào chuông. Tháng 6 năm Giáp Ngọ 1714, Chúa lệnh cho chưởng cơ Tống Đức Đạt đứng ra trông coi việc trùng tu và làm nhiều nhà, lầu, điện, vườn tại chùa Thiên Mụ đồng thời Chúa sai người qua nước Thanh mua Kinh, Luật và Luận hơn ngàn bộ để ở tự viện.

Tháng 3 năm Kỷ Hợi 1719, Chúa đi thăm dinh Quảng Nam, duyệt binh mã, rồi đến phố Hội An, nhân thấy phía tây phố có cầu, là nơi thuyền buôn tụ họp, nên đặt tên là Lai Viễn Kiều 橋 遠 来 , viết chữ biển vàng ban cho.

Tháng 2 năm Tân Sửu 1721, chúa cho dựng chùa Hoàng Giác ở xã Hiền Sĩ, thuộc huyện Phong Điền.
Năm Nhâm Dần 1722, đường đi qua Truông Nhà Hồ (rừng Hồ Xá) thường có trộm cướp tụ họp, hành khách lấy làm lo ngại. Chúa cho Nguyễn Khoa Đăng làm Nội tán, tìm cách bắt trị, cấm trấp nghiêm minh. Từ đó trộm cướp im tắt, đường sá không bị cản trở, trăm họ đều ca tụng. Ở phá Tam Giang thì Chúa cho tìm ra luồng lạch giúp tàu thuyền đi lại tránh được đá ngầm và sóng dữ, nên dân gian vùng này đến nay vẫn còn lưu truyền câu ca dao:
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ Truông nhà Hồ, sợ phá tam Giang.
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn,
Truông nhà Hồ, Nội tán cấm nghiêm.
Tháng 4 năm Quý mão 1723, thi Nhiêu học (người đỗ kỳ thi này được bổ làm quan huấn đạo ở các huyện, phủ), lấy đỗ 77 người, Sĩ tử bàn luận rất sôi nổi. Chúa ra lệnh họp tất cả ở Chính Dinh để Chúa thi, tứ lục và thơ phú mỗi thể một bài. Sĩ tử không làm nổi ra về, Chúa bèn truất hết.

Ngày Mậu Tý, 21 tháng 4 năm Ất Tỵ (1/6/1725), Chúa băng, thọ 51 tuổi. Vua Thế Tổ truy tôn: Anh Mô Hùng Lược Thánh Văn Tuyên Đạt Khoan Từ Nhân Thứ Hiếu Minh Hoàng Đế 英 謨 雄 略 聖 文 宣 達 寬 慈 仁 恕 孝 明 皇 帝 , Miếu hiệu là Hiển Tông 顯 宗 .
Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu từ tấm bé đã là người văn hay chữ tốt, đủ tài văn võ là người thông suốt kinh sử, giỏi thơ văn. Trong 34 năm ở ngôi, Ngài đã ghi dấu ấn đậm nét vào lịch sử dân tộc trên nhiều lĩnh vực: Chính trị, giáo dục, quân sự, kinh tế, hoằng pháp tâm linh, văn hoá, ngoại giao…. Bút tích, báu vật của Ngài còn lưu lại ở nhiều nơi, là người mở đầu một giai đọan mới công nghiệp Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Trong thời của Ngài, dân chúng được sống ấm no, hạnh phúc.

Lăng Quốc Chúa táng tại Kim Ngọc (Hương Trà, Thừa Thiên). Tên lăng là Trường Thanh 長 清 陵. Ngài cùng Hậu được thờ tại Thái Miếu, án thứ ba bên trái.
Hậu của Chúa húy là Tống Thị Được 宋 氏 特 . Hậu nguyên họ Hồ, là con của quan Chưởng dinh Hồ Văn Mai, khi nhập cung đổi qua họ Tống (**). Hậu mất ngày 12 tháng 2 năm Bính Thân (5.3.1716), hưởng dương 37 tuổi. Lăng táng tại làng Trúc Lâm (Hương Trà, Thừa Thiên). Vua Thế Tổ truy tôn: Từ Huệ Cung Thục Ý Đức Kính Mục Hiếu Minh Hoàng Hậu, 慈 惠 恭 淑 懿 德 敬 穆 孝 明 皇 后 , tên lăng là Vĩnh Thanh 永 清 陵 .

Ngoài Hậu, Chúa còn có các Phu Nhân như: Kính Phi Phu Nhân Từ Đức húy Nguyễn Thị Lan 阮 氏 蘭, Tu Dung Phu Nhân húy Trần Thị Nghi 陳 氏 儀, Hữu Cung Tần húy Lê Thị Tuyên 黎 氏 宣, Hữu Cung Tần húy Tống Thị Lượng 宋 氏 量 v.v… Riêng Kính Phi Phu Nhân mất năm Giáp Ngọ (1714), được một năm, chúa thương mãi không thôi, làm đàn chay trọng thể ở chùa Thiên Mụ, chúa làm 4 bài thơ viết vào tường chùa. Bấy giờ, các Cung Tần từ trần, không ai được ân sủng như vậy. Người đời cho là việc long trọng (theo Đại Nam Liệt Truyện).
Quốc Chúa có nhiều Công tử; Công nữ nhất trong các Chúa Nguyễn (146 người theo Liệt Truyện, 42 người theo Hoàng phổ). Ngài thuộc đời thứ sáu họ Nguyễn Phúc, khai sáng ra hệ VII Tiền Biên, hiện nay Hệ VII có 28 Phòng.
Nhân húy nhật lần 300 của Ngài (21.4. Ất Tỵ 1725 – 21.4. Ất Tỵ 2025). Xin tri ân và thành kính dâng nén tâm hương bái vọng lên Đức Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng Đế lễ ngũ bái.
Ghi chú:
(*) Từ đời Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu, các chúa Nguyễn mới có Đạo Hiệu:
Quốc Chúa là Thiên Túng Đạo Nhân 天 縱 道 人 , Chúa Ninh là Vân Tuyền Đạo Nhân 雲 泉 道 人 , Chúa Vũ là Từ Tế Đạo Nhân 慈 濟 道 人 , Định Vương là Khánh Phủ Đạo Nhân 慶 暊 道 人 .
(**) Nội Tổ mẫu của Chúa húy là Tống Thị Đôi 宋 氏 堆 , Thân mẫu của Chúa húy là Tống Thị Lĩnh 宋 氏 領 . Họ Tống Phước 宋 福 là một dòng họ danh giá, có công lao lớn ngay thuở đầu mở nước (khai quốc công thần) từ thời Chúa Tiên Nguyễn Hoàng, nên Hậu của Chúa được vinh dự đổi sang họ Tống.

FacebookGmailShare